Đối với mỗi người dân Trung Hoa, đôi đũa là một vật dụng quen thuộc không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày. Dù sau này, trên bàn ăn đã xuất hiện thêm các dụng cụ từ phương Tây như nĩa, dao… thì đôi đũa vẫn giữ được sự quan trọng của mình. Vì thế, đôi đũa đã trở thành một nét văn hóa rất độc đáo của Trung Quốc.
Có nhiều quốc gia tự coi mình là nơi sản sinh ra đôi đũa. Điều này còn cần được nghiên cứu thêm. Tuy nhiên, ở Trung Quốc đôi đũa đóng vai rất trò quan trọng trong truyền thống văn hóa. Từ xa xưa, đũa được những người dân bên bờ sông Trường Giang gọi là “Zhu” có nghĩa là “dừng lại”. Nhưng đối với những người thủy thủ đi trên tàu, “dừng lại” là một điều không may mắn. Vì thế thay bằng gọi Zhu” họ gọi là “Kuai có nghĩa là nhanh nhẹn, hoạt bát. Từ đó đến nay, người Trung Hoa gọi đôi đũa là “Kuai”.
Người Trung Quốc không dùng dao và dĩa trong bữa ăn bởi theo quan niệm của học thuyết Khổng Tử, đó là những vật dụng liên quan đến bạo lực và binh đao. Trong khi đó, đũa tượng trưng cho sự thanh cao và lòng nhân từ, đây cũng là hai nội dung chính của học thuyết Khổng Tử. Một lý do nữa không kém phần quan trọng đó là các món ăn của người Trung Quốc thích hợp với đũa hơn là dao và dĩa. Do đó, đôi đũa đóng một vai trò quan trọng trong truyền thống văn hóa của người Trung Hoa.
3 TRUYỀN THUYẾT VỀ SỰ RA ĐỜI CỦA ĐÔI ĐŨA
Đôi đũa là một phần của văn hóa Trung Hoa cổ xưa, được kể lại trong rất nhiều các truyền thuyết và câu chuyện dân gian khác nhau trong lịch sử. Trong đó, 3 truyền thuyết phổ biến nói về sự ra đời của đôi đũa là: Đát Kỷ và đôi đũa (truyền thuyết được lưu truyền vùng Giang Tô); Đại Vũ dùng cành cây, cành trúc gắp thức ăn (truyền thuyết được lưu truyền vùng Đông Bắc); Khương Tử Nha và đôi đũa trúc.
Trước hết, chúng ta sẽ nói tới Truyền thuyết về Đát Kỷ và sự ra đời của đôi đũa. Tương truyền tại vùng Giang Tô, vua Trụ (triều đại nhà Thương) buồn vui thất thường, khi hắn ăn uống thì hoặc là chê thịt cá không tươi, khi lại mắng canh gà nóng quá, thậm chí còn bực bội vì mặt nhạt không hợp khẩu vị,… Kết quả rất nhiều ngự trù đã mất mạng dưới thái độ hách dịch của vị hôn quân này.
Yêu hồ Đát Kỷ được vua Trụ sủng ái, mỗi lần có yến tiệc, để tránh làm Trụ Vương nổi giận, Đát Kỷ đều thử đồ ăn trước. Có một lần Đát Kỷ chọn ra được vài món hợp khẩu vị nhưng thấy phần quá nóng, thời gian lại gấp không kịp cho đổi. Trong lúc vội quá Đát Kỷ liền nhanh trí rút trâm ngọc trên đầu rồi kẹp đồ ăn và thổi, sau đó mới đưa cho Trụ Vương.
Trụ Vương thấy hành động gắp đồ ăn của Đát Kỷ lạ mắt nên rất vui, từ đó ngày nào cũng yêu cầu Đát Kỷ làm như thế. Mỹ nhân này liền nhờ người thợ thủ công làm cho hai cây trâm ngọc thật dài để gắp đồ ăn. Đây chính là hình thức đầu tiên của đũa ngọc. Về sau cách gắp đồ ăn này được truyền đến dân gian, sinh ra đôi đũa trúc.
Truyền thuyết này không hợp với bằng chứng lịch sử. Giới khảo cổ học trước đây đã khai quật khu lăng mộ thời nhà Ân Thương ở khu Hầu Gia Trang, thuộc An Dương và đã tìm thấy loại đũa bằng thép, qua khảo chứng niên đại thì sớm hơn thời mạt kỳ Trụ Vương nhà Thương.
Một truyền thuyết phổ biến khác trong dân gian cho rằng đôi đũa được Hoàng đế Hạ Vũ tìm ra. Hạ Vũ nổi tiếng là một vị vua nhân cách đạo đức ngay thẳng và có tài chống lũ lụt.
Trong một giai đoạn lịch sử, khi đất nước mà ông trị vì liên tục bị lũ lụt nghiêm trọng đe dọa, vì quá bận rộn với công việc cải cách hệ thống những con đê để kiểm soát nước nên Hạ Vũ không thể dành thời gian để gặp vợ và con mình, không thể cùng họ dùng một bữa cơm tươm tất.
Một lần nọ, khi cùng những binh lính đến một hòn đảo, Hạ Vũ đích thân chuẩn bị dụng cụ nấu ăn và lửa để nấu thịt. Vì quá đói do làm việc cật lực dưới trời mưa lớn và nước ngập mọi nơi, đồng thời muốn rút ngắn thời gian ăn uống để quay lại công việc, ông đã bẻ hai nhành cây nhỏ từ một cành cây gần đó và dùng chúng để trực tiếp gắp thịt thả vào nồi nước đang sôi. Những người hầu cận và binh lính có mặt lúc đó cũng bắt chước ông. Và cây đũa đã ra đời trong hoàn cảnh như vậy.
Truyền thuyết này nếu tính theo thời gian thì lại khá hợp lý. Tuy nhiên, cũng không có gì khảo chứng chuẩn xác điều này.
Truyền thuyết thứ ba thì lại kể rằng, vì Khương Tử Nha quá nghèo túng, vợ của ông muốn hại chết ông để lấy người khác. Một hôm người vợ nói: “Ông đói phải không? Tôi nấu thịt cho ông rồi, mau dùng đi nhé!”.
Khương Tử Nha tay đang cầm miếng thịt, bỗng một con chim bay từ ngoài cửa sổ vào rồi mổ vào tay Khương Tử Nha. Khương Tử Nha đau quá kêu “ai da” một tiếng, rồi xua đuổi con chim đi. Lần thứ hai cầm miếng thịt con chim lại bay vào mổ vào tay ông. Sau ba lần liên tục, Khương Tử Nha bất giác nghi ngờ, không lẽ miếng thịt này không ăn được? Thế là Khương Tử Nha đuổi theo con chim ra ngoài, chạy đến một sườn núi không có người. Con chim lúc này đậu trên một cành trúc rồi kêu lên lảnh lót: “Khương Tử Nha ôi Khương Tử Nha, ăn thịt không được dùng tay cầm, đồ để gắp thịt ở dưới chân ta đây…”.
Khương Tử Nha nghe thế thì nghĩ đây đúng là con chim thần, bèn nghe theo chỉ điểm của chim, bẻ hai nhánh trúc nhỏ rồi đi về nhà. Về đến nhà người vợ lại thúc giục ông ăn thịt, Khương Tử Nha dùng hai que trúc thò vào trong bát kẹp miếng thịt, đâu ngờ từ một đám khói xanh bốc lên từ que trúc, “tại sao que trúc lại bốc khói, không lẽ có độc?” Nghĩ thế Khương Tử Nha liền gắp miếng thịt bắt vợ ăn. Người vợ sợ hãi vội bỏ chạy đi. Câu chuyện sau đó bị nhiều người biết, vợ Khương Tử Nha không còn dám đầu độc ông nữa, còn hàng xóm láng giềng thì ai nấy học cách dùng nhánh trúc ăn cơm.
Truyền thuyết này không phù hợp với lịch sử. Khương Tử Nha sống cùng thời vua Trụ nhà Thương, đã có vua Trụ dùng đũa ngà voi, vậy thì đũa trúc của Khương Tử Nha không phải nguồn gốc đầu tiên của đũa.
Tất cả những điều trên đều chỉ là lời đồn đại và chưa hề có ghi chép lịch sử chính xác về người đã tạo ra đũa. Chúng ta chỉ có thể nói rằng chiếc đũa là phát minh của một người Trung Quốc cổ đại có bộ óc thông minh.
VẬT LIỆU TẠO NÊN ĐÔI ĐŨA
Giới khảo cổ học ở Trung Quốc đã khai quật khu lăng mộ thời nhà Ân Thương ở khu Hầu Gia Trang, thuộc An Dương. Họ đã tìm thấy loại đũa bằng thép. Có thể coi đây là bằng chứng khảo cổ sớm nhất mà chúng ta tìm thấy được liên quan đến vật dụng này.
Ngày nay, đôi đũa ở Trung Quốc có thể được tạo ra từ nhiều vật liệu khác nhau như tre, gỗ, nhựa, sứ, bạc, đồng, ngà, ngọc, xương, thậm chí là đá. Tuy nhiên, đũa tre vẫn là loại được sử dụng thường xuyên nhất trong cuộc sống hàng ngày của người Trung Quốc.
Ý NGHĨA ĐẰNG SAU CỦA ĐÔI ĐŨA TRONG VĂN HÓA TRUNG HOA
Đứng ở góc độ tự nhiên, đôi đũa là thể hiện của các yếu tố của triết học Trung Hoa, đặc biệt là nhị phân âm dương. Hai chiếc đũa phải được sử dụng như một cặp, một cái giữ vững chắc trong khi cái kia di chuyển, để sử dụng. Điều này phản ánh sự hòa hợp của âm và dương như các yếu tố thụ động và hoạt động tương ứng tạo nên khái niệm về một tổng thể năng lượng.
Theo truyền thống Trung Hoa, chiều dài tiêu chuẩn của một chiếc đũa là 7 thốn (1 thốn = 3,33m) và 6 phân (1 phân = 3,33mm). Điều này tượng trưng cho thất tình lục dục của con người trong đạo lý của Phật giáo. Ăn cơm cũng giống như tu thân dưỡng tính, loại bỏ những dục vọng trong mỗi con người.
Đôi đũa có hình dạng một đầu vuông và đầu còn lại hình tròn tượng chưng cho trời và đất: “Trời tròn còn đất vuông”. Điều này có nguồn gốc từ bát quái trong triết học của người Trung Quốc. Đây là nguồn gốc sinh ra vạn vật. Chúng ta dùng đầu tròn để gắp thức ăn tượng chưng cho câu nói: “Dân dĩ thực vi tiên” (Dân coi thực là trời).
Đũa thường có một cặp, tượng chưng cho âm và dương. Khi dùng đũa, một chiếc giữa chặt, chiếc còn lại chuyển động. Tượng chưng cho “tĩnh và động” phản ánh sự hòa hợp trong âm dương.
Khi cầm đũa đúng cách, những ngón tay tự nhiên đặt vào 3 vị trí: Ngón cái và ngón trỏ trên cao, ngón út và ngón đeo nhẫn ở dưới thấp, ngón giữa nằm ở giữa 2 chiếc đũa. Điều này không đơn giản chỉ là một quy ước bề mặt, nó còn tượng trưng cho quan niệm truyền thống của người Trung Hoa xưa về trời, đất và con người.
Ngón út và ngón đeo nhẫn hỗ trợ lẫn nhau dưới thấp, biểu thị cho Đạo của đất. Ngón cái và ngón trỏ tương ứng với sự linh hoạt và ổn định hoặc những luật lệ trên thiên thượng.
Ngón giữa là biểu tượng cho vị trí khó khăn nhưng danh giá của một vị vương, theo truyền thống gọi là thiên tử. Đây chính là người vừa phải đáp ứng nhu cầu, mong ước của người dân vừa phải tuân thủ đạo đức và thuận theo mệnh trời.
Người Trung Quốc cổ đại tin rằng ở đôi đũa có tồn tại mối liên kết giữa trời đất và con người. Những niềm tin đó đã thâm nhập vào văn hoá và cuộc sống. Đó là từ các nghi lễ tôn giáo được tổ chức trong triều đình đến các phong tục dân gian truyền từ đời này sang đời khác trong dân chúng, lưu truyền bao đời.
NGHI THỨC DÙNG ĐŨA CỦA NGƯỜI TRUNG HOA
Đũa thường được giữ trong tay phải và việc sử dụng đũa bằng tay trái được coi là nghi thức không thích hợp ở Trung Quốc.
Nghịch đũa được coi là một hành vi xấu, còn gắp thức ăn cho người già, trẻ em sẽ được coi là lịch sự và chu đáo.
Khi đi ăn với người lớn tuổi, người Trung Quốc thường để người lớn cầm đũa trước mình.
Thông thường, một người chủ nhà mến khách sẽ chủ động gắp thức ăn từ đĩa vào đĩa của khách.
Gõ đũa vào thành bát được cho là hành động bất lịch sự bởi vào thời cổ đại Trung Quốc, những người ăn xin thường làm vậy để thu hút sự chú ý.
Văn hóa Trung Hoa quả thật có rất nhiều điều thú vị mà khi đặt chân đến đây du khách mới có thể khám phá một cách trọn vẹn. Hãy để tour Trung Quốc của chúng tôi là chiếc cầu nối đưa du khách đến với một nền văn hóa đặc sắc này nhé!