Trong Ỷ Thiên Đồ Long ký của Kim Dung, Trương Vô Kỵ – một người trung nghĩa, võ công tuyệt đỉnh – được “quần ma” tôn lập giáo chủ Minh giáo. Chu Nguyên Chương, một giáo đồ Minh giáo, thuộc hạ của Trương Vô Kỵ, đã dựa vào lực lượng này tiêu diệt nhà Nguyên, lập nên nhà Minh. Những điều này không phải hoàn toàn do Kim Dung hư cấu.
Ma giáo (Minh giáo) trong kiếm hiệp Kim Dung
Trong kiếm hiệp Kim Dung, Ma giáo được miêu tả là môn phái lớn mạnh, đủ sức đối địch với toàn bộ võ lâm và hoạt động một cách rất bí ẩn.
Ma giáo xuất hiện nhiều và được miêu tả cụ thể nhất trong tác phẩm “Ỷ thiên đồ long ký” của Kim Dung. Trong “Ỷ thiên đồ long ký” viết: “Minh giáo xuất xứ từ nước Ba Tư, truyền vào Trung thổ thời Đường Võ Hậu (Võ Tắc Thiên). Thời đó có người Ba Tư tên Phí Đa Diên mang bộ Tam Tông kinh của Minh giáo đến Đường triều và bắt đầu truyền giáo. Tới năm Hội Xương thứ 3 (thời Đường Vũ Tông) thì triều đình ra lệnh giết giáo đồ. Minh giáo đi vào hoạt động bí mật”.
Trương Vô Kỵ là giáo chủ nổi tiếng nhất của Ma giáo. Trong trận chiến trên đỉnh núi Quang Minh, Trương Vô Kỵ sử dụng bộ võ công Càn khôn đại na di, một mình đánh bại 6 đại môn phái. Sau khi giải cứu thành công các thủ lĩnh của Ma giáo, Trương Vô Kỵ được tôn làm giáo chủ đời thứ 34. Trương Vô Kỵ đã giúp Ma giáo từ một giáo phái bị vu là “ma quỷ” khôi phục danh tiếng, trở thành thủ lĩnh của các cuộc khởi nghĩa chống nhà Nguyên. Đặc biệt, theo “Ỷ thiên đồ long ký”, Chu Nguyên Chương – Hoàng đế sáng lập nhà Minh – cũng có xuất thân từ Ma giáo.
Theo kiếm hiệp Kim Dung, Ma giáo tập hợp nhiều cao thủ võ lâm có tính tình cổ quái, không hành động theo lễ giáo thông thường mà có vẻ mờ ám, bí mật nên bị giới võ lâm chính phái kỳ thị. Thù oán giữa Ma giáo với võ lâm chính phái rất sâu đậm, kéo dài hàng trăm năm, mỗi lần gặp nhau đều xảy ra chém giết.
Tuy nhiên, trong các tiểu thuyết của Kim Dung, các nhân vật danh môn chính phái không hẳn toàn người tốt và người trong Ma giáo cũng không hẳn là xấu. Có những nhân vật chính phái nhưng càng về sau càng lộ tâm địa xấu xa, và có những nhân vật thuộc về Ma giáo nhưng trọng tình nghĩa.
Trong tác phẩm “Tiếu ngạo giang hồ”, Ma giáo được gọi với một cái tên khác là Nhật nguyệt thần giáo (chữ “nhật” và chữ “nguyệt” trong Hán tự khi ghép lại với nhau sẽ tạo thành chữ “minh”). Dưới sự lãnh đạo của Đông Phương Bất Bại, thế lực của Ma giáo trở nên hùng mạnh nhưng không đi theo con đường chính nghĩa mà thường chèn ép các môn phái khác trong võ lâm. Lúc này, chỉ còn có Thiếu Lâm tự là được Ma giáo kiêng nể vài phần.
Nhiều đời giáo chủ Ma giáo xuất hiện trong truyện Kim Dung như: Dương Đỉnh Thiên, Trương Vô Kỵ, Nhậm Ngã Hành, Đông Phương Bất Bại đều được miêu tả là sở hữu những tuyệt kỹ võ công cao cường, không hề “đụng hàng” với các môn phái khác. Các bộ võ công Ma giáo nổi tiếng nhất là Càn khôn đại na di, Quỳ hoa bảo điển và Hấp tinh đại pháp đều có xuất xứ từ bên ngoài Trung Hoa.
Người thường chỉ cần học được một môn tuyệt kỹ của Ma giáo là đã đủ xưng bá võ lâm. Tuy nhiên, điều này đồng nghĩa với việc họ đã gia nhập “bàng môn tả đạo” và sẽ bị “danh môn chính phái” trong giang hồ coi thường, truy sát. Dù hiếm khi hành hiệp trượng nghĩa, Ma giáo vẫn gây ấn tượng và được nhiều độc giả yêu thích vì sự bí ẩn, cách “hành tẩu giang hồ” không theo chuẩn mực, không quan tâm miệng lưỡi thế gian.
Tôn giáo có thật trong lịch sử Trung Quốc
Mani giáo hay còn gọi “Minh giáo”, “Mạt Ni giáo”, “Mâu Ni giáo”, là một tôn giáo cổ của Iran, do Mani (216-277), người Ba Tư sáng lập vào khoảng thế kỷ 3, được truyền bá theo hai hướng Đông – Tây, cực thịnh một thời, ảnh hưởng sâu rộng. Về sau, giáo phái này tàn lụi dần và ít nghe tiếng tăm.
Giáo chủ Mani sinh ra trong một gia đình quý tộc ở đế quốc Ba Tư (Iran ngày nay). Năm 14 tuổi, Mani tuyên bố mình được Chúa trời giác ngộ và thành lập Mani vào năm 240. Mani khi sáng lập Mani giáo từng phát lời thề là truyền bá giáo phái này đến mọi quốc gia, trở thành tôn giáo thế giới.
Mani giáo chia làm 5 cấp bậc bao gồm: tông đồ, tín đồ, giám mục, trưởng lão và giáo chủ. Họ thường ăn chay, mặc đồ trắng và phải cầu nguyện 7 lần mỗi ngày.
Giáo nghĩa chính thống của Mani giáo nằm trong bộ Nhị Tông kinh bằng chữ Ba Tư, truyền bá tư tưởng “Nhị tông, tam tế”. “Nhị tông” là hai thái cực sáng và tối, thiện và ác; “tam tế” là sơ tế, trung tế và hậu tế, tương ứng với quá khứ, hiện tại và tương lai. Tương truyền rằng tại hậu kỳ sơ tế và trung tế, Minh Vương cùng các vị thần của Quang Minh vương quốc liên tục chiến đấu với quần ma của vương quốc Bóng Tối do Ma Vương đứng đầu; đến hậu kỳ trung tế thì giành toàn thắng, thế giới bị hủy diệt, Minh Vương (Đại Minh Tôn) đưa nhân loại trở về Quang Minh vương quốc.
Xét từ giáo nghĩa, Mani giáo mang tư tưởng mãnh liệt về hậu kiếp và cứu độ chúng sinh. Chính điều này đã khiến Mani giáo dễ dàng dung hợp với tín ngưỡng dân gian Trung Quốc theo những tín điều cơ bản của Phật giáo, Đạo giáo…
Cựu Đường thư (chính sử nhà Đường, Trung Quốc) chép, năm 694, một thương gia người Ba Tư đã tới Trung Hoa thông qua Con đường Tơ lụa và bắt đầu truyền bá các giáo lý của Mani giáo. Mani giáo được Võ Tắc Thiên công nhận vào năm 694 và phát triển mạnh vào năm 806. Từ đó, Mani giáo truyền đi khắp các châu thuộc miền Nam Trung Hoa như: Kinh Châu, Dương Châu, Hồng Châu… Minh giáo có ảnh hưởng từ dân chúng đến đại sĩ phu. Đời Đường, thuyết Phật Di Lặc giáng sinh rất thịnh hành. Năm 695, Nữ hoàng Võ Tắc Thiên tự xưng là “Phật Di Lặc hóa thân”, lấy danh nghĩa này xây dựng và thống trị triều Võ Chu (690-705), ngụy tạo ra kinh điển có tên là “Đại Vân kinh”, ra chiếu lập những chùa Đại Vân ở khắp Trung Hoa. Nhiều nhân vật nổi tiếng đời Đường như cao tăng Huyền Trang, Khuy Căn, thi hào Bạch Cư Dị… đều là những người tin vào thuyết “Phật Di Lặc giáng sinh tịnh thổ” của Mani giáo.
Năm 755, An Lộc Sơn dấy binh làm loạn, nhà Đường lâm nguy. Sau khi An Lộc Sơn chiếm thành Trường An, rồi cả Lạc Dương, Đường Huyền Tông phải nhờ tới sự giúp đỡ của nhiều bộ tộc thiểu số để chống đỡ, trong đó có Duy Ngô Nhĩ – những người rất sùng bái Mani giáo. Năm 763, biến loạn An Lộc Sơn bị dẹp tan, để trả ơn người Duy Ngô Nhĩ, nhà Đường cho phép Mani giáo được mở rộng hoạt động, thu nhận tín đồ. Năm 806, Đường Hiến Tông cho phép Mani giáo lập chùa ở kinh thành Trường An, gọi là “Đại Vân Quang Minh Tự”.
Để có thể thu nhận được nhiều tín đồ, thủ lĩnh của Mani giáo cố ý diễn giải các bộ kinh của Phật giáo, Đạo giáo – 2 tôn giáo lớn ở Trung Hoa theo hướng có lợi cho mình. Những tín đồ Mani giáo cho rằng Đức Phật, Lão tử và giáo chủ Mani của họ là 3 thể của một đấng sáng tạo duy nhất. Giáo chủ Mani được xưng tụng là “Quang Minh Mani Phật” và điều này khiến nhiều vị vua nhà Đường (vốn rất coi trọng Phật giáo, Đạo giáo) không hài lòng.
Đến năm 843, thế lực của người Duy Ngô Nhĩ đã suy giảm đáng kể, nhà Đường bắt đầu cấm truyền bá Mani giáo, gọi đây là “bàng môn tả đạo”. Nhiều đền chùa của Mani giáo bị phá hủy, kinh sách bị đốt và giáo đoàn bị bắt giữ, tàn sát. Để tránh tai vạ, những thủ lĩnh của Mani giáo quyết định đưa giáo phái vào hoạt động bí mật. Mani giáo sau đó cũng đổi tên thành “Minh giáo”, nhưng triều đình gọi là “Ma giáo”. Sự kiện này trong lịch sử gọi là “Hội Xương pháp nạn”.
Sau khi nhà Đường diệt vong (năm 907), Trung Quốc rơi vào thời kỳ Ngũ đại – Thập quốc cát cứ phân tranh đầy biến động. Minh giáo nhân cơ hội này mở rộng hoạt động, thành lập nhiều cơ sở thờ tự và đẩy mạnh thu nhận tín đồ.
Giáo lý của Minh giáo chủ trương tuyên truyền việc “ánh sáng sẽ đánh bại bóng tối”, càng có nhiều tín đồ, thế lực ánh sáng sẽ càng mạnh, nên nhận được niềm tin của nhiều tầng lớp nhân dân – những người chịu hậu quả nặng nề nhất do chiến tranh, loạn lạc và luôn khao khát một thế giới mới tươi sáng hơn.
Đến thời nhà Tống, Minh giáo phát triển mạnh và có hàng vạn tín đồ. Tống sử chép, năm 1120, Phương Lạp người ở huyện Thanh Khê, Chiết Giang cùng thủ hạ nổi dậy chống triều đình. Phương Lạp tự xưng là “Thánh công” – thủ lĩnh của Minh giáo – và kêu gọi tín đồ khắp nơi vùng dậy khởi nghĩa. “Quân Phương Lạp không dùng cung tên, giáo mác, không mặc áo giáp, chỉ dùng chuyện quỷ thần để mê hoặc lòng dân. Lúc đông nhất có tới hàng vạn người đi theo”, Tống sử chép.
Năm 1121, cuộc khởi nghĩa của Phương Lạp bị dẹp tan, Minh giáo bị nhà Tống đàn áp nhưng vẫn âm thầm hoạt động. Đến cuối thời Nguyên, Minh giáo trở thành một trong những lực lượng chính chống đối triều đình.
Tháng 1/1368, Chu Nguyên Chương đánh đuổi nhà Nguyên về Mông Cổ, lên ngôi Hoàng đế, lấy quốc hiệu là “Minh”. Lý do Chu Nguyên Chương gọi triều đại do mình sáng lập là “Minh” đến nay vẫn là điều bí ẩn trong lịch sử Trung Quốc, cũng có lý giải do Chu Nguyên Chương từng là tín đồ của Minh giáo (lấy từ “Minh” của Minh giáo đặt quốc hiệu cho triều đại).
Thực tế, “Minh” không phải vùng đất hay địa danh nào có liên quan đến Chu Nguyên Chương, không có nguồn gốc từ các triều đại trước, cũng không phải chức tước nào mà ông từng được phong.
Trong lịch sử Trung Quốc, chưa từng có ai lập căn cứ khởi nghĩa ở khu vực phía nam, đánh ngược ra bắc mà thành công như Chu Nguyên Chương. Thành công của Chu Nguyên Chương trong việc sáng lập nhà Minh là chưa từng có tiền lệ và tên gọi của triều đại này rất có thể liên quan tới một số đặc điểm riêng tư trong cuộc đời ông.
Nguyên sử chép, năm Chí Chính thứ 12 (1352), Chu Nguyên Chương gia nhập Hồng Cân quân (quân khăn đỏ) do Quách Tử Hưng lãnh đạo. Quân khăn đỏ vốn xuất phát từ sự liên minh giữa các tôn giáo chống nhà Nguyên thời bấy giờ như: Minh giáo, Bạch Liên giáo và Di Lặc giáo.
Được sự tín nhiệm của Quách Tử Hưng, Chu Nguyên Chương trở thành phó soái của quân khăn đỏ. Sau khi Quách Tử Hưng chết, Chu Nguyên Chương lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống nhà Nguyên. Những tình tiết trong lịch sử này khiến giới nghiên cứu lịch sử ngờ rằng Chu Nguyên Chương là tín đồ của Minh giáo và quốc hiệu “Minh” do ông đặt ra có liên quan mật thiết đến giáo phái này.
Minh sử không chép việc Chu Nguyên Chương từng là tín đồ của Minh giáo nhưng ghi nhận rằng, sau khi lên ngôi Hoàng đế, một trong những việc đầu tiên ông làm là tiêu diệt Minh giáo. Năm Hồng Vũ nguyên niên (1368), Chu Nguyên Chương ra lệnh cấm “dị giáo dân gian”, chủ trương công kích Minh giáo, đề cao Phật giáo và Nho giáo.
Chu Nguyên Chương rất có thể đã nhận ra sự nguy hiểm của một giáo phái lớn mạnh, hoạt động ngầm như Minh giáo nên quyết tâm thanh trừng. Khác với nhà Đường và Tống, cuộc đàn áp Minh giáo dưới sự chỉ huy của Chu Nguyên Chương diễn ra vô cùng gắt gao. Hàng nghìn tín đồ Minh giáo không chịu cải đạo đã bị giết hại. Đến cuối thời Minh, không còn ghi chép nào về sự xuất hiện của Minh giáo ở Trung Quốc.
Trong tiểu thuyết Ỷ thiên đồ long ký, Minh giáo cùng Thiếu Lâm, Cái Bang và Võ Đang là 4 môn phái mạnh nhất giang hồ. Tuy nhiên, khác với 3 môn phái còn lại, Minh giáo chủ trương khởi nghĩa chống nhà Nguyên. Chu Nguyên Chương vì vậy chọn gia nhập Minh giáo, trở thành thuộc hạ đắc lực của Trương Vô Kỵ. Chu Nguyên Chương nhờ vào lực lượng của Minh giáo mà đánh đổ nhà Nguyên, sáng lập nhà Minh.
Theo Wenshigu, năm 1903, giáo sư A.Granweldel – chuyên gia thuộc Bảo tàng Nhân chủng học Berlin (Đức) đã khai quật được một số lượng lớn bản kinh của Mani giáo ở Tân Cương, Trung Quốc. Năm 1913, bức tượng “Quang Minh Mani Phật” được phát hiện ở tỉnh Phúc Kiến. Đây là bức tượng từng được các tín đồ Mani giáo thờ phụng duy nhất còn sót lại trên thế giới. Năm 2009, hàng loạt di tích thờ tự, kinh sách của Mani giáo được phát hiện ở thành phố Ninh Đức, tỉnh Phúc Kiến. Đây là những bằng chứng rõ ràng nhất về sự xuất hiện và hoạt động mạnh mẽ của Mani giáo tại Trung Quốc.
Di tục của Minh giáo đã ăn sâu từ ngàn năm trước
Hàng ngàn năm nay, tại miền duyên hải Viêm Đình – Quát Sơn, huyện Thương Nam, TP Ôn Châu, tỉnh Triết Giang – Trung Quốc, người dân vẫn duy trì một số phong tục kỳ lạ: Mặc áo choàng trắng tập trung tụng niệm siêu độ cho người qua đời; khi ăn thì nuốt 3 đũa cơm trắng trước rồi mới dùng thịt, cá; nhiều người già buổi sáng lạy mặt trời, buổi tối lạy mặt trăng…
Năm 1982, các nhà sử học đã tìm thấy bài ký Ghi chép ở Chùa Tuyển Chân của Khổng Khắc Biểu trong bộ Bình Dương huyện chí, trong đó có đoạn: “Chùa Tuyển Chân là nơi tụ chúng của giáo đồ nước Tô Lân”, địa điểm ở “núi Bằng Sơn, tại Quách Nam – Bình Dương”. Tô Lân là tên cổ của Ba Tư, tức Iran ngày nay, quốc giáo thuở xưa chính là Mani giáo, từ đời Tống về sau bị “Hoa hóa” trở thành Ma giáo rồi Minh giáo. Còn địa điểm của vùng Quách Nam – Bình Dương chính là vùng Viêm Đình – Quát Sơn ngày nay. Những phong tục kỳ lạ của người dân ở đây chính là di tục của Minh giáo đã ăn sâu từ ngàn năm trước.
Trên đây là thú vị về Ma giáo trong lịch sử Trung Quốc. Nếu du khách muốn khám phá nhiều điều thú vị hơn về xứ sở xinh đẹp này thì hãy Book Tour Trung Quốc của chúng tôi nhé! Chúc du khách có một chuyến đi vui vẻ và đầy ý nghĩa!