Trong Hậu cung Trung Hoa xưa, không hiếm thấy sự xuất hiện của các phi tần ngoại quốc. Những vị phi tần ấy vốn dĩ chỉ là “vật hi sinh” cho các cuộc hôn nhân chính trị, và đa phần đều chết thảm do không có thủ đoạn bằng các phi tần chính quốc. Tuy nhiên, với Thục Gia Hoàng Quý phi – vị phi tần duy nhất có nguồn gốc Triều Tiên của Càn Long Đế là một ngoại lệ đặc biệt.
Thục Gia Hoàng Quý phi có xuất thân Triều Tiên, nhưng làm phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long Đế không phải vì mục đích chính trị. Chưa kể bà đã trụ vững trong chốn thâm cung, từng bước đi lên từ vị trí Quý Nhân cho đến Hoàng Quý phi và hạ sinh cho Càn Long Đế tới 4 Hoàng tử, mang về cho gia tộc không ít vinh hiển.
Thục Gia Hoàng Quý phi Kim Giai thị, nguyên là Kim thị, sinh vào ngày 25/7 (âm lịch) năm Khang Hi thứ 52, xuất thân Chính Hoàng kỳ Bao y, là hậu duệ một gia tộc người Triều Tiên, nguyên gốc hiện ở Nghĩa Châu.
Sau sự kiện Đinh Mão chi dịch xảy ra năm 1617, tổ tiên bà đến cậy nhờ Hậu Kim, sinh sống ở vùng Đông Bắc, do vậy về căn bản Kim thị là một Mãn Châu nữ tử gần như thuần chủng. Nhà Thanh thiết lập Cao Ly Tá lĩnh, là xếp dòng dõi của bà vào hệ này, cũng xem là trở thành chân chính Mãn Châu sĩ phu. Căn cứ “Mãn Châu Bát Kỳ thị tộc thông phổ ” ghi lại, Cao Ly Tá lĩnh, là Tá lĩnh độc nhất ở Nội vụ Phủ, đều lệ thuộc Chính Hoàng kỳ Bao y đệ Tứ Tham lĩnh, sở hữu 43 dòng họ khác nhau, trong đó Kim thị và Hàn thị là 2 họ hiển hách nhất. Hai gia tộc đều lấy quân công lập nghiệp, cũng hoạch phong thế chức, do vậy Mãn Châu quý tộc đối với họ rất ưu ái cùng coi trọng, trở thành sĩ tộc có ảnh hưởng trong xã hội.
Theo “Bát Kỳ thông chí” cuốn 4, Kỳ phân chí ghi lại: năm đầu Thiên Thông (1627), tằng tổ phụ của Thục Gia Hoàng quý phi Tam Đạt Lễ, khi đó tùy trưởng huynh Tân Đạt Lễ quy phụ Hậu Kim, lấy làm quan phiên dịch. Đương Hoàng Thái Cực quy mô dụng binh Triều Tiên bán đảo, do vậy cho quy phục Chính Hoàng kỳ Bao y, nhậm Cao Ly Tá lĩnh, Tân Đạt Lễ nhậm Cao Ly đệ Nhị Tá lĩnh, kiêm Nội vụ Phủ Tam kỳ Hỏa doanh Tổng quản sự. Tổ phụ Thượng Minh không rõ sự tích. Cha của Kim thị là Thượng Tứ Viện Khanh Kim Tam Bảo, từng là Tuần thị Trường lô diêm chính, sau thăng Võ Bị viện Khanh, kiêm nhậm Công trung Tá lĩnh, nhậm Đệ Tam Tá lĩnh kiêm Đệ Tứ Tá lĩnh. Anh trai trưởng Kim Đỉnh từng nhậm Lam Linh Thị vệ, thứ huynh Kim Huy từng nhậm Mãn Tả Thị lang của bộ Binh, anh út là tương lai Lễ bộ Thượng thư Kim Giản.
Do là Bao y thuộc Nội vụ phủ, Kim thị sẽ thông qua Nội vụ phủ tuyển tú nhập cung làm cung nữ, và thông qua đó có lẽ Kim thị đã hầu hạ Hoàng tứ tử Hoằng Lịch, nhận danh phận làm Cách cách và sống trong Tiềm Để cùng ông. Đến khi Hoằng Lịch đăng cơ Hoàng đế, bà chính thức được sắc phong vị trí Quý Nhân. Tới đây, con đường hoạn lộ của bà mới chính thức khai hoa nở nhụy.
Mùa xuân năm Càn Long thứ 2 (1737), Kim Quý Nhân được Càn Long đế sắc phong thành Tần. Khi định huy hiệu, Nội vụ phủ soạn ra 4 huy hiệu lần lượt là “Lệnh”, “Uyển”, “Gia” và “Túy”, sau cùng định chọn “Gia tần”. Theo Hồng xưng thông dụng của Nội vụ phủ, chữ “Gia” có Mãn văn là “Gitulkhan”, có nghĩa là “đáng khen”. Ngày 4/12 (âm lịch) cùng năm đó, lấy Lễ bộ Thượng thư Nhậm Lan Chi làm Chính sứ, Nội Các Học sĩ Ngô Gia Kỳ làm Phó sứ, tiến hành lễ sách phong.
Năm Càn Long thứ 4 (1739), ngày 14/1 (tức ngày 21 tháng 2 dương lịch), bà hạ sinh Hoàng tứ tử Vĩnh Thành, là vị hoàng tử đầu tiên của Càn Long Đế sau khi đăng cơ.
Năm thứ 6 (1741), ngày 13/2, chỉ dụ tấn lên Phi. Cùng năm tháng 11, lấy Lễ bộ Thượng thư Tam Thái làm Chính sứ, Lễ bộ Thị lang Mãn Sắc làm Phó sứ, hành sắc phong lễ. Năm Càn Long thứ 11 (1746), ngày 15/10, bà lại sinh hạ Hoàng bát tử Vĩnh Tuyền.
Năm Càn Long thứ 13 (1748), ngày 1/7 (âm lịch), Nhàn Quý phi Na Lạp thị được lập làm Nhiếp lục cung sự Hoàng Quý phi, lễ nghi đều như sách lập Hoàng hậu. Do đại lễ long trọng này, Càn Long Đế cũng đại phong hậu cung, dụ tấn Gia phi Kim thị thành Quý phi. Cùng năm, ngày 9/7, Gia Quý Phi phúc khí tràn đầy, lại sinh thêm một Hoàng tử, đáng tiếc Hoàng tử này yểu mệnh nên chưa được 1 tuổi đã hoăng thệ.
Cứ tưởng con đường sinh nở của bà tới đây là dừng lại và bà đã an phận ở vị trí Gia Quý phi, nhưng không, năm Càn Long thứ 17 (1751), ngày 7/2, bà tiếp tục hạ sinh Hoàng thập nhất tử Vĩnh Tinh.
Cũng chính vì do liên tục sinh nở nên sức khỏe của Gia Quý Phi đã sớm cạn kiệt. Bà đã lâm trọng bệnh và qua đời vào ngày 15/11, ở tuổi 42. Bà được đích thân Sùng Khánh Hoàng Thái hậu truy phong thành Thục Gia Hoàng Quý phi, đồng thời cũng là 1 trong 5 hậu phi duy nhất được an táng ở Dụ lăng phi viên tẩm cùng Càn Long Đế, bên cạnh Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu, Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu, Tuệ Hiền Hoàng Quý phi và Triết Mẫn Hoàng Quý phi. Thần bài của bà được đặt ở Tây Noãn các trong Long Ân điện, phía Tây bài vị của Tuệ Hiền Hoàng quý phi (ở giữa Noãn các), và phía Đông, cũng là đối diện chính là bài vị của Triết Mẫn Hoàng Quý phi.
Đáng lưu ý là dù đã qua đời, nhưng những ân sủng của bậc Thiên tử dành cho bà vẫn còn tiếp tục. Chẳng hạn như việc Hoàng đế Gia Khánh (kế vị Càn Long đế) đã hạ lệnh gia tộc Kim Thị của Thục Gia Hoàng Quý phi được đổi thành Kim Giai Thị và nhập vào Mãn Châu Chính Hoàng kỳ. Đến năm Gia Khánh thứ 23, hoàng đế truyền chỉ chính thức sửa tên Kim Thị thành Kim Giai thị trong ngọc điệp hoàng gia, biểu thị ân sủng thâm hậu đối với gia tộc của bà. Từ đây gia tộc trở nên hưng thịnh, Kim Giản lần lượt nhậm Tương Hoàng kỳ Hán quân Đô thống, rồi Lại bộ Thượng thư. Con là Ôn Bố, sơ thụ Bái đường a, Lam Linh Thị vệ, Tổng binh trấn Thái Ninh, Nội vụ Phủ đại thần, Võ Anh điện Tổng đài quan, Tương Hồng kỳ Hán quân Phó đô thống, Công bộ Thị lang, Chính Hồng kỳ Mông Cổ Phó đô thống, cuối cùng là Thượng thư bộ Hộ. Cháu Thiện Ninh, tập nhậm Thế quản Tá lĩnh, còn Kim Huy từng nhậm Tả Thị lang bộ Binh. Gia tộc từ khi liên hôn hoàng thất, dần dần phát đạt.
Quả thật, mặc dù với xuất thân Triều Tiên nhưng Thục Gia Hoàng Quý phi Kim Giai Thị không những không bị “đào thải” sớm trong chốn hậu cung nhà Thanh vốn thâm độc nhiều tâm cơ, mà còn trụ vững, nâng cao phi vị của mình cho tới khi cuối đời và mang về cho gia tộc không ít vinh hiển đúng là chuyện hiếm thấy.
Trung Hoa nổi tiếng với chiều dài lịch sử nhiều biến cố cùng những triều đại thay phiên nhau và những câu chuyện thâm cung bí sử ít người biết đến. Chính những câu chuyện về lịch sử lại trở thành “liều thuốc” kích thích bất kỳ khách du lịch nước ngoài nào. Nếu du khách yêu thích lịch sử Trung Hoa và muốn tự mình khám phá nhiều điều thú vị hơn thì hãy thực hiện ngay một chuyến du lịch Trung Quốc nhé!